Ba Đã Có
Người Bạn
Như Thế Đó

Nguyễn Ngọc Thiền

Tao phải bắt đầu từ đâu để viết vế mầy hả Nguyễn Minh Nhựt, một thằng bạn chí thân từ 40 năm qua của lớp Đệ Thất 1 Niên khoá 1964 – 1971 Trường Petrus Trương Vĩnh Ký.
Trong vùng ký ức xa xôi của quá khứ nhạt nhoà chợt hiện ra một thằng học sinh rất đẹp trai với cặp mắt to sắc sảo, mủi cao, thẳng và cái miệng lúc nào cũng như muốn cười với cái nốt ruồi “ăn hàng” gần khoé miệng. Bộ đồng phục quần dài xanh, áo trắng đôi giày bata trắng với sợi dây nịch dài quá khổ của người lớn mà mầy cố tình để lòng thòng một cách khoái trá như thanh kiếm đeo xề xệ cạnh sườn của võ sỉ SAMURAI. Có lẽ nhờ cùng chiều cao trung bình nên tao và mầy được xếp ngồi gần nhau và dần quen nhau. Những chiếc bánh da lợn, khoai mì ăn đám giỗ ông bà một trong hai đứa được trao vội vã vào giờ chơi, những gói đậu phộng, kẹo me lén lút đưa dưới gầm bàn trong giờ học và những đồng cảm trong quan niệm sống đã dần dần gắn kết hai thằng tự lúc nào. Mày bảo thích tao ở tánh thành thật, ân cần. Tao lại thích mầy ở chổ hiền lành và tếu rất có duyên. Tao nhớ có lần ở một quán ăn trên đưòng Nguyễn Tri Phương, trong tiệc mừng thi đậu Tú Tài 1 của lớp, một tên trong bọn nghĩ ra tối kiến thi uống bia nhanh được thưởng. Thế là mấy chục thằng tha hồ la hét cổ vũ cho các “nhẩm tửu viên” đua nhau nốc đến mỏi miệng. Sau đó tao nghe mầy phán một câu: “Tụi bây đứa nào cũng cười tươi nhưng tao thấy chỉ có ông chủ quán là cười tươi nhất”. Tao khoái cái máu tếu có duyên, cái nhận xét hóm hỉnh mà chí lý của mầy là thế đó Nhựt.
Học chung với mầy đến hết năm lớp 10 thì mình chia tay vì trong năm đó mầy đã ra ngoài học nhảy lớp 11 và cưối cùng thi đậu Tú Tài 1. Tựu trường tao lên lớp 11 thì mầy đã xin trở lại trường và học lớp 12. Hai năm sau hai đứa gặp nhau ở ĐHKH. Tao nhớ có lần mầy đã vui vẻ giới thiệu với tao cô sinh viên người yêu của mầy. Đúng là thằng có mắt tinh đời. Ánh Ngà có làn da trắng mịn như tuyết, dáng người nhỏ nhắn thuỳ mị, máy tóc thề đen óng chấm vai, mắt to hơi ứơc, mũi dọc dừa, miệng nhỏ, môi hồng và giọng nói rất êm, toát lên một nét quí phái của cung đình. Ấn tượng đầu tiên của tao sau đó đã được xác minh là đúng, cô tao quê ở Huế.
Năm 1972, mầy lên đường sang Đức du học. Hình như rất ít thằng biết được nỗi buồn của mầy vì gia đình của Ngà không có ý định cho cô ra nước ngoài nên đã kiên quyết ngăn cấm cô ta liên lạc với mầy. Ôi, còn nỗi buồn nào hơn khi cùng lúc phải xa lìa quê hương, gia đình, bạn bè và cả người yêu không hẹn ngày trở lại.
Năm 1974 tao nhận được thư kèm hai tấm hình của mầy, đẹp trai, lực lưỡng và yêu đời. Một tấm hình mầy ngồi trên thuyền cao su thể thao màu xanh biển với chiếc dầm bơi màu đỏ nổi bật trên làn nước, một tấm hình mầy đang đứng trong công viên, tựa người, hai khuỷ tay tì vào lan can, gần đó một cụ già đang ngồi trầm tư trên ghế đá. Sau lưng tấm ảnh mầy viết: “sau này khi tao xong chuyện nước non, ước gì mình sẽ như cụ già này Thiền nhỉ”.
Sau năm 1975 tao chỉ đựoc tin mầy qua gia đình và đến năm 1982 thì gia đình mầy rời Việt Nam do mầy bảo lãnh. Từ đó, thỉnh thoảng tao nhận được tin mầy qua các chị Nguyệt, Mỹ, Nga của mầy. Đến năm 1966, khoảng gần Tết Âm lịch, đang lúc ngồi lựa cá kiểng để bán thì anh Tám Khâm của tao đi vào và nói: “Thiền mầy có bạn đến thăm kìa”. Tao quay ra và không thể tin được người đó là mầy. Trước mặt tao là một người đầu hói, gầy nhom, chỉ còn nụ cười, cái nốt ruồi đặc biệt và giọng nói là quen thuộc: “Ê, mầy nhận ra tao là … ai không?”. Nhựt ơi, cả khi mầy thành tro bụi tao vẫn không quên mầy đâu. Một thằng đã mường tượng ra từng thằng và viết được tên họ cùng chữ lót của 55 thằng Đệ Thất 1 ngày nào theo đúng thứ tự alphabet như tao sau gần 40 năm xa cách thì làm sao quên được thằng bạn thân như mầy. Lần đó, vì mầy ở với gia đình ngưòi bạn đang hợp tác lao động bên Đức nên tao và Ngân ít gặp và không được nghe mầy tâm sự nhiều. Lần thứ hai mầy về năm 1999 và ở nhà tao ăn Tết. Tao được nghe nhiều chuyện buồn mầy kể mà theo suy đoán của tao buồn nhất đó là chuyện cả gia đình mầy trên chuyến bay từ Việt Nam sang Đức do mầy bảo lãnh đã gặp và nhận ra Ánh Ngà cũng cùng đáp chuyến bay nhưng sang Pháp để đoàn tụ cùng chồng. Trớ trêu ở chổ gia đình người yêu ngăn cấm không cho liên hệ với một sinh viên du học để rồi người yêu cũng lại lấy chồng xứ người. Tao nghe giọng kể hơi nghèn nghẹn và chợt hiểu ra nguyên nhân nghiền rượu và sống độc thân của mầy. Nhiều lần tao đã gặp mầy mân mê sợi dây đeo đồng hồ bằng da củ mèm và nói rằng đó là quà tặng của Ánh Ngà hồi còn ở Việt Nam. Phải chăng vì thế đêm nào mầy cũng độc ẩm một mình trên gác, mỗi đêm uống cạn cả chai rượu mạnh ½ lít (loại bỏ túi) trong cái va ly đầy rượu mang về dù bác sĩ đã ngăn cấm do bệnh gan của mầy.
Tao có thằng bạn quả chung tình!
Lần nào về Việt Nam mầy cũng dò hỏi tin tức và tính cách giúp đở bạn bè. Thằn được mắc cho cái điện thoại, thằng được giúp cho chiếc xe gắn máy, đứa dược trợ vốn để làm ăn. Các con cái của bạn bè cũng được mầy trợ cáp tiền quà bánh, sách vở, học phí hàng tháng với những số tiền không nhỏ thay vì dùng nó vào việc hưởng thụ ăn chơi như bao người khác. Và càng thương hơn khi biết mầy đã dành dụm số tiền đó bằng cách ăn tiêu thết dè xẻn, thậm chí phải thuê phòng ở tầng hầm thiếu tiện nghi để lấy tiền giúp đở bạn bè. Tao nhớ rất rõ nhiều lần mầy đã nói trước anh em: “Tao biết tụi bây hiện giờ nhiều thằng còn khó khăn. Tao sẽ cố gắng hết sức đưa vài đứa con tụi bây ra nứơc ngoài du học. Khi thành tài tụi nó làm có tiền sẽ hoàn lại để tao có điều kiện lo cho đám đàn em của tụi nó. Noi theo cách làm của tao lần lược con em của Cựu Học Sinh Petrus Ký tụi mình sẽ theo đó thành tài ngày càng đông và trở về xây dựng quê hương, làm rãng danh cha chú”. Tao hiểu ý mầy khi đề cập đến một nền giáo dục chưa hợp lý giữa lý thuyết và thực hành, giữa đào tạo và sử dụng người, trong hiện tại cũng như trong quá khứ. Có lần mẩy kể chuyện trước năm 1972, anh một thằng bạn của mầy tốt nghiệp kỹ sư luyện kim Đại Học Hoàng Gia Anh Quốc khi về nước được đưa về ngồi ở bộ Kinh Tế (chế độ cũ Sài Gòn) khâu giám định và cấp nhãn hiệu cầu chứng mà sản phẫm tốt xấu tuỳ theo độ dày mỏng của “phong bao” kèm theo hồ sơ. Một chiếc xe đạp của chú Ba (Tàu), MADE IN CHOLON có thể bị gãy cổ quăng ngừi cỡi xuống đưòng nếu lỡ sụp ổ gà vẫn được cấp giấy đạt tiêu chuẩn nếu sếp gật đầu. Rồi đến anh Hoà, một kỹ sư hàng không nước ngoài cũng chẳng biết làm gì khi về nước. Hoặc như Nguyễn Xuân Vinh, người đã vẽ quỹ đạo cho chương trình phóng phi thuyền Apollo v.v…
Nhựt ơi, hoài bão của mầy tao rất tôn trọng vì mầy là thằng dám nói, dám làm. Lúc đó mầy bảo là đang xúc tiến lo cho con thằng Long, thằng Tấn và kế tiếp là con thằng Thành du học với mỗi suất hàng chục ngàn đô la. Thật tình tao không dám ngăn nhưng cũng không tin tưởng lắm về hiệu quả việc này. Ở phương trời tự do của Tây phương liệu những ràng buộc tinh thần vì một lời hứa của bậc làm cha mẹ với nhau có được các con thực hiệu hay không?. Vài cánh én không thể tạo được mùa xuân nhưng ít ra mùa xuân cũng còn cánh én. Vậy mà chua xót thay, một trong những cánh én tiêu biểu của tình đồng môn, tình đoàn kết tương trợ giữa Cựu Học sinh Petrus Ký đã không còn nữa. Với cõi đời mênh mông phù phiếm nầy việc mầy làm có thể được xem như “un peu soleil dans l’eau froid” nhưng với riệng tao và lớp Đệ Thất 1 tụi mình đó là ngọn lửa bất diệt của tình bạn cháy rực sáng ngời. Đau đớn thay người thắp lên ngọn lửa giờ đã mất. Mầy đã vĩnh viễn ra đi ngày 18/3/2002 qua email của chị Nguyệt gởi về trước ngày 19/3 là sinh nhật lần thứ 50 của mình. Tao không ngờ bữa cơm chiều trước giờ đưa mầy ra phi trường TSN đầu năm 2001 là lần cưối còn được gặp mầy. Tao nhớ như in ánh mắt mầy lúc buông đủa chuẩn bị xách va ly ra xe. Trong ánh mắt ấy có gì đau buồn của một người sắp lìa bỏ không gian ấm cúng hạnh phúc để bước vào cô đơn và giá lạnh. Tao cũng không ngờ 4 giờ chiều 31/12/2001 là lần cuối cùng được nghe giọng nói của mầy. Lúc đó, chị Nguỵêt đang du lịch ở Sài Gòn và thường xuyên liên lạc với tao. Mầy nhờ tao nhắn dùm với chị là hãy vui chơi thoải mái vì Ba mầy đã khoẻ và mầy đang chăm sóc ông cụ cùng với chị Mỹ. Tao có hỏi sao nghe giọng nói của mầy nghẹt nghẹt như bị cảm. Mầy bảo chắc do mất ngủ đã lâu. Sau đó mầy còn hỏi xem tao muốn nói chuyện với ai trước: Ba mầy hay chị Mỹ. Sau này tao mới biết qua ngày hôm sau 01/01/2002 mầy đã bị hôn mê và đưa vào bệnh viện. Những tin tức về sức khoẻ của mầy xấu dần, nàolà phải có người đút cơm, dau tập đọc, tập viết như đứa bé lên 5 nhưng tụi tao vẫn hi vọng rồi mầy sẽ khỏi, cùng lắm là ngồi xe lăn mà thôi. Nào ngờ số mầy bạc quá! Một thằng luôn nghỉ đến bạn bè nhưng khi lâm bệnh đến lúc lìa đời chẳng có thằng nào đến được bên giường để thăm viếng hay thắp một nén hương trên mộ. Kể ra thằng Đoàn Văn Nhựt (Bến Tre) có phúc hơn mầy. Lúc bệnh hoạn được anh em trong và ngoài nước viếng thăm, tích cực giúp đở (à chuyến đó chính mầy tổ chức chứ ai). Tình cảm ấy đã được gia đình nó cảm kích đến ổi hôm cúng 49 ngày của nó tụi tao xuống dự và vô cùng xúc động khi đọc dòng chữ cuối bia mộ: “Bằng hữu và hiền thê lập mộ”. Cả đời tao chưa bao giờ nhìn thấy dòng chữ này ở bất cứ nghĩa trang nào. Xưa nay cũng có nhiều câu chuyện cảm động về tình bạn bè đồng môn của đàn anh đàn em, của bạn bè cùng niên khoá, giờ đây lại có thêm chuyện của mầy và thằng Nhựt Bến Tre ở lớp mình.
Việt Nam tự hào với những danh nhân mà thế giới biết tiếng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, và Nguyễn Huệ. Mong sao vấn đề công tội của Petrus Trương Vĩnh Ký, một trong mười tám nhà bác học thế kỷ 19 sẽ được ngã ngũ để cụ được mĩm cười nơi chín suối và các cựu học sinh qua bao thời đại sẽ mãi mãi hãnh diện vì đã đựoc rèn luyện và thành danh dưới mái trường mang tên người. Tiếc rằng ngày đó không có mầy, một thằng bạn để lại nhiều kỷ niệm sâu đậm trong lòng bạn bè lớp Đệ Thất 1 nói riêng và cựu học sinh niên khoá 1964 – 1971 nói chung.
Điều tao có thể làm được và xin hứa trước vong linh mầy là sẽ cúng giỗ hàng năm cho mầy và dặn dò con cái sau nầy tiếp tục ngay cả khi tao đã qua đời vì:
“Ba đã có một người bạn như thế đó”

(Một buổi chiều cuối Đông năm 2004, viết cho một thằng bạn chí thân đã mất)
NGUYỄN NGỌC THIỀN
Cựu học sinh lớp Đệ Thất 1 NK 64 - 71